Chỉ số đô la Mỹ (DXY), đo lường hiệu suất của đô la Mỹ (USD) so với sáu loại tiền tệ chính, đã giảm xuống dưới 107,00 vào thời điểm viết bài vào thứ Hai. Tâm trạng thị trường được cải thiện sau khi các nhà lãnh đạo châu Âu, bao gồm Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskyy, thể hiện sự sẵn sàng đảm bảo một thỏa thuận hòa bình ở Ukraine vào Chủ nhật. Kế hoạch này giờ đây cần được Mỹ ủng hộ.
Về mặt dữ liệu kinh tế, trọng tâm sẽ là lĩnh vực sản xuất tại Mỹ. Ngoài việc công bố chỉ số PMI cuối cùng của S&P Global cho tháng Hai, Viện Quản lý Cung ứng (ISM) sẽ công bố báo cáo PMI sản xuất cụ thể của mình. Ngoài chỉ số chính, các thành phần Giá phải trả và Đơn đặt hàng mới có thể cung cấp một số thông tin về lạm phát và tình hình đơn hàng trong lĩnh vực này sau hơn một tháng ảnh hưởng của Tổng thống Mỹ Trump.
Tuần này không thể bắt đầu với nhiều sự không chắc chắn hơn, với nhiều yếu tố chuyển động và các mối liên hệ vẫn còn lỏng lẻo kể từ cú bùng nổ vào thứ Sáu tại Phòng Bầu dục. Rõ ràng rằng dữ liệu của Mỹ sẽ được coi là tự động, trong khi địa chính trị sẽ là những yếu tố chính thúc đẩy sâu hơn vào năm 2025. Các nhà giao dịch sẽ cần phải chấp nhận chế độ mới, nơi một tiêu đề có thể dễ dàng làm gãy một chuỗi liên tục hoặc xu hướng trong bất kỳ tài sản nào, cũng như đối với chỉ số đô la Mỹ.
Về phía tăng, Đường trung bình động giản đơn (SMA) 55 ngày là mức kháng cự đầu tiên cần theo dõi cho bất kỳ sự từ chối nào, hiện ở mức 107,98. Trong trường hợp DXY có thể vượt qua mức 108,00, mức 108,50 sẽ trở lại trong tầm ngắm.
Về phía giảm, mức 107,00 cần giữ vững như một mức hỗ trợ. Gần đó, 106,84 (SMA 100 ngày) và 106,52, như một mức then chốt, nên hoạt động như hỗ trợ và tránh bất kỳ sự trở lại nào về khu vực 106 thấp hơn.
Chỉ số đô la Mỹ: Biểu đồ hàng ngày
Đô la Mỹ (USD) là tiền tệ chính thức của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và là tiền tệ 'trên thực tế' của một số lượng đáng kể các quốc gia khác nơi nó được lưu hành cùng với tiền giấy địa phương. Đây là loại tiền tệ được giao dịch nhiều nhất trên thế giới, chiếm hơn 88% tổng doanh thu ngoại hối toàn cầu, tương đương trung bình 6,6 nghìn tỷ đô la giao dịch mỗi ngày, theo dữ liệu từ năm 2022. Sau Thế chiến thứ hai, USD đã thay thế Bảng Anh trở thành đồng tiền dự trữ của thế giới. Trong phần lớn lịch sử của mình, Đô la Mỹ được hỗ trợ bởi Vàng, cho đến khi Thỏa thuận Bretton Woods năm 1971 khi Bản vị Vàng không còn nữa.
Yếu tố quan trọng nhất tác động đến giá trị của đồng đô la Mỹ là chính sách tiền tệ, được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả (kiểm soát lạm phát) và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được hai mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, điều này giúp giá trị của đồng đô la Mỹ tăng. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất, điều này gây áp lực lên đồng bạc xanh.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang cũng có thể in thêm Đô la và ban hành nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bế tắc. Đây là một biện pháp chính sách không chuẩn được sử dụng khi tín dụng đã cạn kiệt vì các ngân hàng sẽ không cho nhau vay (vì sợ bên đối tác vỡ nợ). Đây là biện pháp cuối cùng khi việc chỉ đơn giản là hạ lãi suất không có khả năng đạt được kết quả cần thiết. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn để chống lại cuộc khủng hoảng tín dụng xảy ra trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Nó liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ chủ yếu từ các tổ chức tài chính. QE thường dẫn đến đồng Đô la Mỹ yếu hơn.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại trong đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư vốn từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn vào các giao dịch mua mới. Thông thường, điều này có lợi cho đồng đô la Mỹ.