Dưới đây là những gì bạn cần biết vào thứ Sáu, ngày 21 tháng 2:
Hoạt động trên các thị trường tài chính lắng xuống vào thứ Sáu khi các nhà đầu tư chờ đợi dữ liệu sơ bộ về Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ tháng 2 từ Đức, Khu vực đồng euro, Vương quốc Anh và Mỹ. Trong nửa cuối của ngày, lịch kinh tế của Mỹ cũng sẽ công bố dữ liệu Doanh số bán nhà hiện có trong tháng 1 và một số nhà hoạch định chính sách của Cục Dự trữ Liên bang (Fed) sẽ có bài phát biểu trước khi bước vào cuối tuần.
Sau hai ngày phục hồi, Chỉ số đô la Mỹ (USD) đã chịu áp lực giảm giá mới trong giờ giao dịch của Mỹ vào thứ Năm và giảm xuống mức thấp nhất trong hơn hai tháng gần 106,30. Dữ liệu từ Mỹ cho thấy số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu hàng tuần đã tăng lên 219.000 từ 214.000. Trong khi đó, lãi suất trái phiếu chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm chuẩn đã giảm xuống dưới 4,5%, tạo thêm gánh nặng cho đồng USD. Sáng thứ Sáu, chỉ số này vẫn ở trong giai đoạn củng cố quanh mức 106,50.
Bảng bên dưới hiển thị tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê tuần này. Đô la Mỹ là yếu nhất so với Đồng Yên Nhật.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | -0.01% | -0.68% | -1.17% | 0.00% | -0.61% | -0.68% | -0.08% | |
EUR | 0.01% | -0.52% | -1.20% | 0.11% | -0.52% | -0.58% | 0.03% | |
GBP | 0.68% | 0.52% | -0.59% | 0.63% | 0.05% | -0.06% | 0.55% | |
JPY | 1.17% | 1.20% | 0.59% | 1.18% | 0.60% | 0.71% | 1.07% | |
CAD | -0.00% | -0.11% | -0.63% | -1.18% | -0.59% | -0.69% | -0.09% | |
AUD | 0.61% | 0.52% | -0.05% | -0.60% | 0.59% | -0.06% | 0.55% | |
NZD | 0.68% | 0.58% | 0.06% | -0.71% | 0.69% | 0.06% | 0.61% | |
CHF | 0.08% | -0.03% | -0.55% | -1.07% | 0.09% | -0.55% | -0.61% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đồng tiền cơ sở được chọn từ cột bên trái, và đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Đô la Mỹ từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Đồng Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho USD (đồng tiền cơ sở)/JPY (đồng tiền định giá).
Trong những giờ giao dịch đầu tiên của phiên châu Á, dữ liệu từ Nhật Bản cho thấy Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) quốc gia ở Nhật Bản đã tăng 4% so với cùng kỳ năm trước trong tháng 1, tăng từ 3,6% trong tháng 12. Bình luận về triển vọng chính sách, Thống đốc Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BoJ) Kazuo Ueda cho biết: "có thể sẽ có thêm các đợt tăng lãi suất nếu triển vọng giá cả tiếp tục cải thiện, và có thể có một số tác động không thể đoán trước đến nền kinh tế." Sau khi giảm hơn 1% vào thứ Năm, USD/JPY đã phục hồi vào thứ Sáu và được ghi nhận tăng khoảng 0,6% trong ngày ở mức 150,50.
Chỉ số PMI tổng hợp của Jibun Bank ở Úc đã tăng lên 51,2 trong tháng 1 từ 51,1, cho thấy hoạt động kinh tế của khu vực tư nhân tiếp tục mở rộng với tốc độ khiêm tốn. Trong khi đó, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Úc Michele Bullock cho biết họ sẽ giữ thái độ thận trọng về triển vọng nới lỏng chính sách thêm nữa. Sau khi đạt mức cao nhất kể từ đầu tháng 12 trên 0,6400, AUD/USD đã điều chỉnh giảm về mức 0,6380 trong phiên giao dịch châu Âu đầu tiên.
Văn phòng Thống kê Quốc gia Vương quốc Anh (ONS) đã báo cáo vào thứ Sáu rằng Doanh số bán lẻ ở Vương quốc Anh đã tăng 1,7% theo tháng trong tháng 1. Kết quả này theo sau mức giảm 0,6% được ghi nhận trong tháng 12 và vượt xa kỳ vọng của thị trường là 0,3%. GBP/USD giữ vững vị trí trong buổi sáng châu Âu và giao dịch ở mức cao nhất trong hai tháng trên 1,2670.
EUR/USD được hưởng lợi từ sự yếu kém của đồng USD trên diện rộng và tăng hơn 0,7% vào thứ Năm. Cặp này dao động trong một biên độ hẹp quanh mức 1,0500 vào sáng thứ Sáu.
Vàng đã đạt mức cao kỷ lục mới trên 2.950$ vào thứ Năm nhưng gặp khó khăn trong việc duy trì đà tăng. Trong buổi sáng châu Âu, XAU/USD giao dịch trong vùng âm gần 2.930$.
Đô la Mỹ (USD) là tiền tệ chính thức của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và là tiền tệ 'trên thực tế' của một số lượng đáng kể các quốc gia khác nơi nó được lưu hành cùng với tiền giấy địa phương. Đây là loại tiền tệ được giao dịch nhiều nhất trên thế giới, chiếm hơn 88% tổng doanh thu ngoại hối toàn cầu, tương đương trung bình 6,6 nghìn tỷ đô la giao dịch mỗi ngày, theo dữ liệu từ năm 2022. Sau Thế chiến thứ hai, USD đã thay thế Bảng Anh trở thành đồng tiền dự trữ của thế giới. Trong phần lớn lịch sử của mình, Đô la Mỹ được hỗ trợ bởi Vàng, cho đến khi Thỏa thuận Bretton Woods năm 1971 khi Bản vị Vàng không còn nữa.
Yếu tố quan trọng nhất tác động đến giá trị của đồng đô la Mỹ là chính sách tiền tệ, được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả (kiểm soát lạm phát) và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được hai mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, điều này giúp giá trị của đồng đô la Mỹ tăng. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất, điều này gây áp lực lên đồng bạc xanh.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang cũng có thể in thêm Đô la và ban hành nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bế tắc. Đây là một biện pháp chính sách không chuẩn được sử dụng khi tín dụng đã cạn kiệt vì các ngân hàng sẽ không cho nhau vay (vì sợ bên đối tác vỡ nợ). Đây là biện pháp cuối cùng khi việc chỉ đơn giản là hạ lãi suất không có khả năng đạt được kết quả cần thiết. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn để chống lại cuộc khủng hoảng tín dụng xảy ra trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Nó liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ chủ yếu từ các tổ chức tài chính. QE thường dẫn đến đồng Đô la Mỹ yếu hơn.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại trong đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư vốn từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn vào các giao dịch mua mới. Thông thường, điều này có lợi cho đồng đô la Mỹ.