Khảo sát Cơ hội việc làm và Tình trạng Lao động (JOLTS) sẽ được công bố vào thứ Ba bởi Cục Thống kê Lao động Mỹ (BLS). Việc công bố sẽ cung cấp dữ liệu về sự thay đổi trong số lượng cơ hội việc làm vào tháng 2, cùng với số lượng sa thải và nghỉ việc.
Dữ liệu JOLTS được những người tham gia thị trường và các nhà hoạch định chính sách của Cục Dự trữ Liên bang (Fed) xem xét kỹ lưỡng vì nó có thể cung cấp những hiểu biết quý giá về động lực cung-cầu trong thị trường lao động, một yếu tố chính ảnh hưởng đến lương và lạm phát. Các cơ hội việc làm đã giảm liên tục kể từ khi đạt trên 12 triệu vào tháng 3 năm 2022, cho thấy sự hạ nhiệt ổn định trong điều kiện thị trường lao động. Vào tháng 9 năm 2024, số lượng việc làm giảm xuống còn 7,44 triệu, đánh dấu mức thấp nhất kể từ tháng 1 năm 2021, trước khi tăng lên 7,8 triệu và 8,09 triệu vào tháng 10 và tháng 11, tương ứng. Vào cuối năm 2024, dữ liệu đạt 7,5 triệu trước khi phục hồi lên 7,74 triệu vào tháng 1.
Thị trường dự đoán số cơ hội việc làm sẽ giảm xuống còn 7,63 triệu vào ngày làm việc cuối cùng của tháng 2. Sau cuộc họp chính sách tháng 3, Cục Dự trữ Liên bang (Fed) đã lưu ý rằng tỷ lệ thất nghiệp đã ổn định ở mức thấp và điều kiện thị trường lao động vẫn vững chắc. Tóm tắt Dự báo Kinh tế (SEP) đã được điều chỉnh cho thấy các nhà hoạch định chính sách của Fed dự đoán tỷ lệ thất nghiệp sẽ đạt 4,4% vào cuối năm 2025, so với 4,3% trong SEP tháng 12. Trong cuộc họp báo sau cuộc họp, Chủ tịch Fed Jerome Powell đã nhắc lại rằng thị trường lao động dường như đang ở trong trạng thái cân bằng rộng rãi.
Điều quan trọng cần lưu ý là trong khi dữ liệu JOLTS đề cập đến cuối tháng 2, báo cáo Việc làm chính thức, sẽ được công bố vào thứ Sáu, đo lường dữ liệu cho tháng 3. Thêm vào đó, những người tham gia thị trường có thể hạn chế nắm giữ các vị thế lớn dựa trên dữ liệu này trước khi Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố chi tiết về chế độ thuế quan mới vào thứ Tư.
Vào tháng 2, Bảng lương phi nông nghiệp (NFP) tăng 151.000, thấp hơn kỳ vọng của thị trường về mức tăng 160.000. Công cụ CME FedWatch hiện cho thấy rằng thị trường đang định giá xác suất dưới 20% cho việc cắt giảm lãi suất 25 điểm cơ bản (bps) vào tháng 5. Mặc dù dữ liệu cơ hội việc làm khó có thể ảnh hưởng đến triển vọng lãi suất của Fed, một bất ngờ tiêu cực đáng kể, với mức đọc ở mức 7 triệu hoặc thấp hơn, có thể gây áp lực lên đồng đô la Mỹ (USD) với phản ứng ngay lập tức. Mặt khác, định vị thị trường cho thấy rằng USD không có nhiều không gian tăng giá, ngay cả khi dữ liệu tốt hơn dự báo.
"Số lượng tuyển dụng giữ ở mức 5,4 triệu, và tổng số tách biệt thay đổi không nhiều ở mức 5,3 triệu," BLS cho biết trong báo cáo JOLTS tháng 1. "Trong số các tách biệt, số người nghỉ việc (3,3 triệu) và số người bị sa thải và thôi việc (1,6 triệu) không thay đổi nhiều."
Khảo sát Cơ hội Việc làm JOLTS là một cuộc khảo sát được thực hiện bởi Cục Thống kê Lao động Mỹ để giúp đo lường các vị trí việc làm trống. Nó thu thập dữ liệu từ các nhà tuyển dụng bao gồm các nhà bán lẻ, nhà sản xuất và các văn phòng
Đọc thêmLần phát hành tiếp theo: Th 3 thg 4 01, 2025 14:00
Tần số: Hàng tháng
Đồng thuận: 7.63M
Trước đó: 7.74M
Nguồn: US Bureau of Labor Statistics
Số lượng cơ hội việc làm sẽ được công bố vào thứ Ba lúc 14:00 GMT. Eren Sengezer, Nhà phân tích trưởng phiên châu Âu tại FXStreet, chia sẻ triển vọng kỹ thuật của mình cho EUR/USD:
"EUR/USD giữ vững lập trường tăng giá nhưng thiếu động lực, với chỉ báo Chỉ số sức mạnh tương đối (RSI) trên biểu đồ hàng ngày giữ hơi trên 50. Về phía giảm, đường Trung bình động đơn giản (SMA) 200 ngày được xác định là mức hỗ trợ chính ở mức 1,0730 trước 1,0585-1,0570 (SMA 50 ngày, mức thoái lui Fibonacci 38,2% của xu hướng giảm từ tháng 10 đến tháng 1)."
"Nhìn về phía bắc, mức kháng cự đầu tiên có thể được phát hiện ở mức 1,0900 (mức tĩnh) trước 1,1000 (mức thoái lui Fibonacci 78,6%) và 1,1100 (mức tĩnh)."
Đô la Mỹ (USD) là tiền tệ chính thức của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và là tiền tệ 'trên thực tế' của một số lượng đáng kể các quốc gia khác nơi nó được lưu hành cùng với tiền giấy địa phương. Đây là loại tiền tệ được giao dịch nhiều nhất trên thế giới, chiếm hơn 88% tổng doanh thu ngoại hối toàn cầu, tương đương trung bình 6,6 nghìn tỷ đô la giao dịch mỗi ngày, theo dữ liệu từ năm 2022. Sau Thế chiến thứ hai, USD đã thay thế Bảng Anh trở thành đồng tiền dự trữ của thế giới. Trong phần lớn lịch sử của mình, Đô la Mỹ được hỗ trợ bởi Vàng, cho đến khi Thỏa thuận Bretton Woods năm 1971 khi Bản vị Vàng không còn nữa.
Yếu tố quan trọng nhất tác động đến giá trị của đồng đô la Mỹ là chính sách tiền tệ, được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả (kiểm soát lạm phát) và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được hai mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, điều này giúp giá trị của đồng đô la Mỹ tăng. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất, điều này gây áp lực lên đồng bạc xanh.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang cũng có thể in thêm Đô la và ban hành nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bế tắc. Đây là một biện pháp chính sách không chuẩn được sử dụng khi tín dụng đã cạn kiệt vì các ngân hàng sẽ không cho nhau vay (vì sợ bên đối tác vỡ nợ). Đây là biện pháp cuối cùng khi việc chỉ đơn giản là hạ lãi suất không có khả năng đạt được kết quả cần thiết. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn để chống lại cuộc khủng hoảng tín dụng xảy ra trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Nó liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ chủ yếu từ các tổ chức tài chính. QE thường dẫn đến đồng Đô la Mỹ yếu hơn.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại trong đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư vốn từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn vào các giao dịch mua mới. Thông thường, điều này có lợi cho đồng đô la Mỹ.