Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang Boston Susan Collins cho biết hôm thứ Năm rằng triển vọng hiện tại yêu cầu một cách tiếp cận dần dần và kiên nhẫn đối với việc cắt giảm lãi suất, theo báo cáo của Reuters.
"Hỗ trợ việc cắt giảm lãi suất của Fed vào tháng 12 nhưng là một quyết định khó khăn."
"Fed không theo con đường định sẵn, chính sách có vị thế tốt."
"Triển vọng hiện tại phù hợp với dự báo của Fed vào tháng 12."
"Nền kinh tế đang ở vị thế tốt tổng thể với những bất ổn đáng chú ý."
"Quá sớm để nói tác động của cuộc bầu cử sẽ có lên nền kinh tế."
"Hiện đang kỳ vọng lạm phát cao hơn so với thời gian gần đây."
"Việc cắt giảm lãi suất vào tháng 12 đã cung cấp bảo hiểm cho thị trường lao động."
"Thị trường việc làm không có khả năng là động lực của lạm phát ngay bây giờ."
"Các yếu tố nhà ở vẫn là động lực chính của lạm phát."
"Ít lo lắng về sự mong manh của thị trường lao động."
"Nền kinh tế trên quỹ đạo dần dần, không đồng đều trở lại mức lạm phát 2%."
Chính sách tiền tệ tại Hoa Kỳ được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được các mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, làm tăng chi phí đi vay trên toàn bộ nền kinh tế. Điều này dẫn đến đồng Đô la Mỹ (USD) mạnh hơn vì khiến Hoa Kỳ trở thành nơi hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư quốc tế gửi tiền của họ. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất để khuyến khích đi vay, điều này gây áp lực lên Đồng bạc xanh.
Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tổ chức tám cuộc họp chính sách mỗi năm, trong đó Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) đánh giá các điều kiện kinh tế và đưa ra các quyết định về chính sách tiền tệ. FOMC có sự tham dự của mười hai quan chức Fed – bảy thành viên của Hội đồng Thống đốc, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York và bốn trong số mười một Thống đốc Ngân hàng Dự trữ khu vực còn lại, những người phục vụ nhiệm kỳ một năm theo chế độ luân phiên.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang có thể dùng đến một chính sách có tên là Nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bị kẹt. Đây là một biện pháp chính sách không theo tiêu chuẩn được sử dụng trong các cuộc khủng hoảng hoặc khi lạm phát cực kỳ thấp. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Điều này liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu cấp cao từ các tổ chức tài chính. QE thường làm suy yếu Đồng đô la Mỹ.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại của Nới lỏng định lượng (QE), theo đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư số tiền gốc từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn để mua trái phiếu mới. Thông thường, điều này có lợi cho giá trị của đồng đô la Mỹ.