Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang Atlanta Raphael Bostic cho biết hôm thứ Ba rằng các quan chức Fed nên thận trọng với các quyết định chính sách do tiến độ không đồng đều trong việc giảm lạm phát và nên nghiêng về phía duy trì lãi suất cao để đạt được các mục tiêu ổn định giá cả của họ, theo Bloomberg.
Với sự gập ghềnh trong các biện pháp như vậy, tôi nghĩ rằng điều đó sẽ yêu cầu cách tiếp cận chính sách của chúng tôi phải thận trọng hơn.
Tôi muốn đảm bảo rằng chúng tôi nhận được tín hiệu đúng, và đảm bảo rằng chính sách của chúng tôi được hiệu chỉnh theo tín hiệu đúng đó. Và nếu chúng tôi phải sai, tôi sẽ sai về phía tăng lên.
Tôi muốn đảm bảo — chắc chắn — rằng lạm phát đạt 2%, điều đó có nghĩa là chúng tôi có thể phải giữ lãi suất chính sách cao hơn lâu hơn so với mọi người có thể mong đợi.
Xu hướng lạm phát có thể cho thấy các giai đoạn chững lại hoặc chuyển động mạnh hơn, phản ánh sự biến động trong dữ liệu.
Đảm bảo chính sách phù hợp với các tín hiệu đáng tin cậy, ngay cả trong bối cảnh biến động, là một trọng tâm chính.
Ưu tiên sai về việc duy trì lãi suất cao hơn lâu hơn để đảm bảo lạm phát đạt mục tiêu 2%.
Việc giảm lãi suất chính sách có thể chậm hơn hoặc bị trì hoãn để đảm bảo tiến độ nhất quán đối với các mục tiêu lạm phát.
Lãi suất có khả năng duy trì ở mức cao lâu hơn so với dự đoán ban đầu để đạt được mục tiêu lạm phát.
Chỉ số Đô la Mỹ (DXY) đang giao dịch thấp hơn 0,02% trong ngày ở mức 108,68, tính đến thời điểm viết bài.
Chính sách tiền tệ tại Hoa Kỳ được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được các mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, làm tăng chi phí đi vay trên toàn bộ nền kinh tế. Điều này dẫn đến đồng Đô la Mỹ (USD) mạnh hơn vì khiến Hoa Kỳ trở thành nơi hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư quốc tế gửi tiền của họ. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất để khuyến khích đi vay, điều này gây áp lực lên Đồng bạc xanh.
Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tổ chức tám cuộc họp chính sách mỗi năm, trong đó Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) đánh giá các điều kiện kinh tế và đưa ra các quyết định về chính sách tiền tệ. FOMC có sự tham dự của mười hai quan chức Fed – bảy thành viên của Hội đồng Thống đốc, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York và bốn trong số mười một Thống đốc Ngân hàng Dự trữ khu vực còn lại, những người phục vụ nhiệm kỳ một năm theo chế độ luân phiên.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang có thể dùng đến một chính sách có tên là Nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bị kẹt. Đây là một biện pháp chính sách không theo tiêu chuẩn được sử dụng trong các cuộc khủng hoảng hoặc khi lạm phát cực kỳ thấp. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Điều này liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu cấp cao từ các tổ chức tài chính. QE thường làm suy yếu Đồng đô la Mỹ.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại của Nới lỏng định lượng (QE), theo đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư số tiền gốc từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn để mua trái phiếu mới. Thông thường, điều này có lợi cho giá trị của đồng đô la Mỹ.