Thống đốc Cục Dự trữ Liên bang Jerome Powell giải thích quyết định cắt giảm lãi suất chính sách, lãi suất quỹ liên bang, xuống 25 điểm cơ bản trong phạm vi 4,25%-4,5% sau cuộc họp tháng 12 và trả lời các câu hỏi trong cuộc họp báo sau cuộc họp.
"Tập trung hoàn toàn vào hai mục tiêu."
"Nền kinh tế mạnh, thị trường lao động vẫn vững chắc."
"Lạm phát gần hơn nhiều với mục tiêu 2%."
"Chi tiêu của người tiêu dùng bền bỉ, đầu tư vào thiết bị đã tăng cường."
"Hoạt động nhà ở đã yếu."
"Cải thiện nguồn cung đã hỗ trợ hiệu suất kinh tế mạnh mẽ của Mỹ."
"Tăng trưởng tiền lương đã giảm."
"Thị trường lao động không phải là nguồn áp lực lạm phát."
"Tổng PCE có thể đã tăng 2,5% trong 12 tháng kết thúc vào tháng 11."
"Giá PCE cơ bản có thể đã tăng 2,8% trong tháng 11."
"Kỳ vọng lạm phát vẫn được neo giữ tốt."
"Rủi ro để đạt được các mục tiêu gần như cân bằng."
"Chú ý đến rủi ro từ cả hai phía."
"Chúng tôi có thể thận trọng hơn trong tương lai, có thể thận trọng hơn trong việc giảm lãi suất."
"Giảm sự kiềm chế chính sách quá chậm có thể làm suy yếu nền kinh tế và việc làm một cách không cần thiết."
"Dự báo của các nhà hoạch định chính sách về lãi suất chính sách cao hơn cho năm tới, phù hợp với lạm phát cao hơn."
Chính sách tiền tệ tại Hoa Kỳ được định hình bởi Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Fed có hai nhiệm vụ: đạt được sự ổn định giá cả và thúc đẩy việc làm đầy đủ. Công cụ chính của Fed để đạt được các mục tiêu này là điều chỉnh lãi suất. Khi giá cả tăng quá nhanh và lạm phát cao hơn mục tiêu 2% của Fed, Fed sẽ tăng lãi suất, làm tăng chi phí đi vay trên toàn bộ nền kinh tế. Điều này dẫn đến đồng Đô la Mỹ (USD) mạnh hơn vì khiến Hoa Kỳ trở thành nơi hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư quốc tế gửi tiền của họ. Khi lạm phát giảm xuống dưới 2% hoặc Tỷ lệ thất nghiệp quá cao, Fed có thể hạ lãi suất để khuyến khích đi vay, điều này gây áp lực lên Đồng bạc xanh.
Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tổ chức tám cuộc họp chính sách mỗi năm, trong đó Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) đánh giá các điều kiện kinh tế và đưa ra các quyết định về chính sách tiền tệ. FOMC có sự tham dự của mười hai quan chức Fed – bảy thành viên của Hội đồng Thống đốc, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York và bốn trong số mười một Thống đốc Ngân hàng Dự trữ khu vực còn lại, những người phục vụ nhiệm kỳ một năm theo chế độ luân phiên.
Trong những tình huống cực đoan, Cục Dự trữ Liên bang có thể dùng đến một chính sách có tên là Nới lỏng định lượng (QE). QE là quá trình mà Fed tăng đáng kể dòng tín dụng trong một hệ thống tài chính bị kẹt. Đây là một biện pháp chính sách không theo tiêu chuẩn được sử dụng trong các cuộc khủng hoảng hoặc khi lạm phát cực kỳ thấp. Đây là vũ khí được Fed lựa chọn trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008. Điều này liên quan đến việc Fed in thêm Đô la và sử dụng chúng để mua trái phiếu cấp cao từ các tổ chức tài chính. QE thường làm suy yếu Đồng đô la Mỹ.
Thắt chặt định lượng (QT) là quá trình ngược lại của Nới lỏng định lượng (QE), theo đó Cục Dự trữ Liên bang ngừng mua trái phiếu từ các tổ chức tài chính và không tái đầu tư số tiền gốc từ các trái phiếu mà họ nắm giữ đến hạn để mua trái phiếu mới. Thông thường, điều này có lợi cho giá trị của đồng đô la Mỹ.